Tôi muốn mở đầu bài viết của mình về Lý Sơn bằng cái
mùi vị mằn mặn, tanh tao xộc vào mũi ngay khi con tầu cập cảng hòn đảo nhỏ này.
Với tôi, một người sống ở biển đã lâu,
cũng không dễ làm quen với cái mùi đó. Huống chi là các chị bạn tôi ở Bắc mới
đến đây lần đầu, lại vừa trải qua một sự vật vã kinh hoàng trên chuyến tàu cao
tốc ra đảo. “Đi xe (ô tô) ngồi đầu, đi tầu (thủy) ngồi cuối”, bài học kinh
nghiệm đầu tiên chúng tôi học được từ cô
bạn “thổ dân” dù hơi muộn màng nhưng thật thấm thía.
Tôi chưa từng đặt chân đến Lũng Cú (Hà Giang) đứng
dưới lá cờ đỏ sao vàng nơi địa đầu Tổ Quốc, nhưng ngay ở Lý Sơn, ngắm lá cờ đỏ
đang phần phật tung bay trên nền biển và
cả nền trời xanh ngắt, trong mênh mang gió cát, bỗng nghe trong mình trào lên
một niềm xúc động tự hào vô bờ bến. Khi đăng tấm hình chụp này lên facebook,
lập tức đã có nhiều lời bình cảm thán:
exciting Vietnam !
Tự hào quá Việt Nam !
Lý Sơn quả nhiên không phụ sự háo hức mong đợi của
chúng tôi trong chuyển tác nghiệp này. Ở đây hình như tồn tại song hành cả
những điều xưa cũ và những mới mẻ, mà chả hề có sự va chạm hay mâu thuẫn với
nhau. Bên cạnh một khách sạn mới xây là cảng cá, mỗi sớm đều có những chuyến
tàu về, những mẹt cá mực tươi rói lấp lánh và cả cái mùi nằng nặng đặc trưng
của biển. Dân cư xung quanh khu trung tâm đảo dường như ít quan tâm đến những
ông bà khách du lịch ngó nghiêng khắp nơi mà chỉ chăm chú làm công việc của
mình. Chân chất, dung dị, không đon đả chào mời, không níu tay chèo kéo mà chỉ
bằng nụ cười, ánh mắt họ đã kéo chúng tôi lê la xem và ăn những đặc sản quê
mình với giá bình dân.
Đang vào mùa,
hành tỏi chất đống và rẻ bằng nửa giá mọi khi. Theo Chủ tịch UBND huyện Trần
Ngọc Nguyên, với 300 ha trồng hành tỏi, hàng năm huyện đảo cung cấp 2000tấn
hành tỏi chothị trường. Tỏi Lý Sơn là đặc sản nổi tiếng có lẽ nhờ hương vị thơm
dịu chứ không phải cay nồng như nhiều người nghĩ. Điều làm nên thương hiệu tỏi
Lý Sơn chính là nhờ loại đất trồng đặc biệt. Đó là loại đất đỏ từ miệng núi lửa
cũ cách nay hàng nghìn năm, được phủ lên lớp đất bồi trộn giữa cát và san hô.
Dường như núi và biển, nước và lửa lại
cùng nhau kết tinh thành một sản phẩm đôc đáo, dịu dàng như thế đấy. Nhìn những
thửa ruộng hành tỏi trên đảo, chợt liên tưởng đến những thửa ruộng bậc thang ở
vùng cao Tây bắc. Tất cả được tạo nên nhờ sự nhẫn nại nhiều đời nhặt đá, xếp đá
... mà thành. Từ tháng 9/2014, nguồn điện cáp ngầm dẫn từ đất liền ra đã làm
đổi thay khá nhiều đời sống của cư dân trên đảo. Nhiều nơi đã lắp đặt hệ thống
tưới tự động để giảm sức người và cũng để tiết kiệm nước. Nước ngọt trên đảo
quý hiếm lắm bởi cả đảo rộng chừng trên 10km2 không có rừng che phủ, chỉ toàn
núi đá trơ trọi là di tích của núi lửa còn lại sau hàng ngàn năm. Nghe nói hiện
nay, đảo đã có nhà máy lọc nước biển thành nước ngọt với công suất chừng
200m3/ngày đêm nhưng cũng không thấm gì
so với nhu cầu sử dụng nước của người dân chứ chưa nói đến chuyện tưới tiêu.
Những ngày này, hạn nặng, những cái giếng càng ngày phải càng được đào sâu hơn,
rộng hơn nhưng hình như chỉ là để khoét sâu thêm nỗi lo thiếu nước mà thôi.
Đến Lý Sơn, bạn sẽ được giới thiệu rất nhiều sản vật
địa phương độc đáo. Nhưng cho đến khi rời đảo, đọng lại trong tôi vấn là loại
ốc biển có tên Ốc Cừ (hay là Ốc Xà Cừ). Ban đầu, khi được giới thiệu về loài ốc
này trên mâm thức ăn, chúng tôi ngạc nhiên khi thấy thịt ốc được gắn với một
vật nhỏ hình tròn, nhỏ xinh và dày như một chiếc cúc áo mà chả hề thấy vỏ ốc
bên ngoài. Mãi sau mới biết, Ốc Cừ là loại ốc to cỡ như con ốc bươu, vỏ xù xì nâu sẫm có
gai. Cái “cúc áo” thực ra chính là phần nắp đậy mồm ốc. À thì ra … ngẫm lại mới
thấy, hình như có một sự tương đồng nào đó giữa những con ốc Cừ với phẩm chất
của người dân Lý Sơn. Không màu mè, khoa trương nhưng vẫn lấp lánh vẻ đẹp huyền
ảo của bảy sắc cầu vồng phía bên trong lớp vỏ xù xì. Sự thầm lặng, dung dị, tự
thân vận động, tự thân bảo vệ song hành cùng sự can trường quả cảm, sẵn sàng
đối mặt với hiểm nguy …
Và thật là thiếu sót nếu không nhắc đến những ngôi mộ
gió trên đảo Lý Sơn. Chúng tôi đã ngạc nhiên và dường như có chút gì cảm thấy chưa
được thoả đáng khi những ngôi mộ của các chiến binh ngày xưa đi bảo vệ Hoàng Sa
dù có được chăm sóc, đắp điếm khá chu đáo
nhưng vẫn chỉ là những những nấm mồ đất, không được xây cất như chúng
tôi tưởng. Sau này mới vỡ lẽ, thực ra đây chỉ là những ngôi mộ gió mà người dân
đảo đắp lên để tưởng nhớ ông bà , những người trong đội hùng binh năm xưa đã ra
đi giữ đất và gửi lại nắm xương mình đâu đó ngoài trùng khơi xa tít. Có lẽ những
ngôi mộ gió mộc mạc ở quê nhà, khi không xây bằng xi măng, gạch đá, không tô
trát phượng rồng lại có sức cuốn hút nhiều hơn với linh hồn người đã khuất, và
nhân lên bội phần niềm cảm phục của những người đang sống đối với cha ông mình.
Ôi Lý Sơn. Nếu nói về hòn đảo tiền tiêu của Tổ Quốc
này, chúng tôi không thể nào viết nhiều hơn những khúc tráng ca của những đội
hùng binh ngày xưa vượt biển bảo vệ Hoàng Sa, mãi mãi không trở về; không thể
viết hơn những dòng tư liệu lịch sử như những bằng chứng hùng hùng hồn về chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc đối với
quần đảo Hoàng Sa xa hàng trăm hải lý
Vậy nên, chỉ là những cảm nhận loanh quanh, những cảm
xúc chợt ùa đến nhưng đã ở lại rất lâu trong chúng tôi.
Dù là đã hơn ba tuần kể từ khi rời đó ….